Jorge Luis Borges, “Phế tích vòng tròn”
Người đó đang tìm một linh hồn xứng đáng tham dự vào vũ trụ.

Người đó đang tìm một linh hồn xứng đáng tham dự vào vũ trụ.
Sơ lược về Truyện hư cấu
Truyện hư cấu (tên gốc là Ficciones), xuất bản lần đầu năm 1944 và là cuốn sách đoạt Giải thưởng lớn danh dự (Gran Premio de Honor) năm đầu tiên của Hội nhà văn Argentina, đã trả lại vị thế trên văn đàn cho Borges, năm ấy 45 tuổi; làm nên tên tuổi ông như một tác giả truyện ngắn (thời trẻ ông nổi tiếng như một nhà thơ, nhà tùy bút, phê bình, chính luận, biên tập tạp chí); và trở thành bệ phóng đầu tiên đưa ông đến với danh tiếng ở Anh-Mỹ và rồi quốc tế. Đây cũng là tập sách được dịch nhiều nhất (qua các thứ tiếng, và nhiều bản dịch trong từng thứ tiếng), đọc nhiều nhất, trích dẫn nhiều nhất của ông. Những truyện “Tlön, Uqbar, Orbis Tertius”, “Pierre Menard, tác giả Don Quijote”, “Thư viện Babel”, “Khu vườn những lối đi rẽ đôi”, “Chủ đề kẻ phản bội và vị anh hùng”, “Phương Nam”… không chỉ là dạng thức hư cấu hoàn thiện cho những chủ đề triết học mà ông đã đọc và nghiền ngẫm từ thời trẻ và chứa đựng những đề tài ông sẽ phát triển suốt cuộc đời mình, đó còn là những cấu trúc nghệ thuật hoàn chỉnh; chúng là nguồn mỏ quặng không cạn cho những nhà Borges học không ngừng tìm thấy những cách phiên giải mới hay những ẩn ý ngầm cài cắm, nhưng cũng mang lại trải nghiệm đọc hay và thú vị đối với bạn đọc sơ giao chỉ biết Borges qua một hai truyện (dù có thể không hiểu hết ông nói gì).
Lịch sử văn bản cuốn Truyện hư cấu có phần phức tạp, giống như các tập sách khác của ông. Nửa đầu tiên, đã phát hành năm 1941 như một tập sách hoàn chỉnh dưới tên Khu vườn những lối đi rẽ đôi (El jardín de senderos que se bifurcan), tập hợp các truyện ngắn đăng báo trong khoảng 1939-1941 cùng truyện “Khu vườn những lối đi rẽ đôi” chưa đăng ở đâu. Các truyện ngắn đăng từ 1942-1944 được tập hợp dưới tên gọi Tác tạo (Artificos), in cùng Khu vườn những lối đi rẽ đôi thành một tập sách chung có tên Truyện hư cấu vào năm 1944; trong bản in này lần đầu tiên đưa vào thêm truyện “Đường đến với Al-Mu’tasim”, nguyên thủy xuất hiện như một “ghi chép” trong tập tiểu luận Lịch sử Vĩnh cửu (Historia de la eternidad, 1936). Khi Truyện hư cấu được tái bản năm 1956, có bổ sung thêm ba truyện ngắn cuối, đó đại khái là hình hài cuốn sách trong các ấn bản về sau.
Nguyễn An Lý
And if he left off dreaming about you…
Through the Looking-Glass, VI
Không ai nhìn thấy người đó cập bờ trong đêm đồng lòng, không ai thấy cái bè tre chìm vào bùn thiêng, nhưng chỉ sau vài ngày không ai không biết rằng con người ít nói kia từ phương Nam đến và quê ông ta là một trong vô vàn ngôi làng trên thượng du, trên sườn núi dốc dữ dằn, nơi ngôn ngữ Zend còn chưa bị tẩm nhiễm tiếng Hy Lạp và nơi hiếm khi bùng bệnh hủi. Thực tế là con người xám ấy đã hôn lên bùn, trèo lên bờ sông mà không gạt đi (hẳn là cũng không cảm thấy) những lá cỏ lau cứa cắt thịt da và lê từng bước, choáng váng và chảy máu, đến kiến trúc hình tròn, trên đỉnh có một con hổ hay ngựa đá, một thời từng mang màu của lửa nhưng giờ có màu của tro. Vòng tròn ấy là một ngôi đền từng bị nuốt chửng trong ngọn lửa cổ xưa, nay đã bị rừng già đầm lầy mạo phạm và thần thánh của nó không còn được nhận cúng tế của con người. Người lạ mặt nằm dài dưới bệ tượng. Mặt trời lên cao đánh thức người đó. Người đó xác nhận mà không ngạc nhiên rằng các vết thương trên người mình đã lành; người đó nhắm đôi mắt nhạt màu và ngủ, không phải vì yếu nhược của cơ thể mà vì quyết tâm của ý chí. Người đó biết rằng đền này là nơi cần thiết cho mục đích bất bại của mình; biết rằng đám cây không ngừng sáp lại kia vẫn chưa thể nào bóp nghẹt, dưới hạ du, phế tích một ngôi đền thiện khác, cũng thờ những vị thần bị thiêu cháy và đã chết; biết rằng bổn phận tức thời của mình là ngủ. Quãng nửa đêm người đó tỉnh giấc bởi tiếng kêu khắc khoải của một con chim. Những dấu chân trần, vài quả vả và một vò nước báo cho người đó biết vài người ở vùng này đã kính cẩn dõi theo giấc ngủ của ông ta, và hoặc kêu gọi sự bảo vệ của ông ta hoặc sợ hãi phép thuật của ông ta. Ông ta lạnh người vì sợ và tìm trong những bức tường đổ nát một hốc đặt mồ rồi phủ lên mình những loại lá không quen.
Mục đích dẫn dắt ông ta, dù có siêu nhiên, không phải là bất khả. Ông ta muốn mơ ra một người: ông ta muốn mơ thấy anh ta toàn vẹn từng chi tiết và áp đặt anh ta vào hiện thực. Dự án pháp thuật đó đã chiếm trọn toàn bộ linh hồn ông ta; nếu có ai hỏi tên ông ta là gì hoặc hỏi bất kỳ thông tin gì về cuộc đời ông ta trước đó, ông ta sẽ không thể trả lời. Ngôi đền không người đổ nát này thuận tiện cho ông ta, bởi lượng thế giới khả kiến trong đó là tối thiểu; có những người làng ở gần cũng là điều thuận tiện, bởi họ sẽ cấp dưỡng cho những nhu cầu đạm bạc của ông ta. Gạo và hoa quả mà họ dâng cúng là đủ dinh dưỡng cho cơ thể ông ta, đang hiến trọn cho nhiệm vụ duy nhất là ngủ và mơ.
Ban đầu, các giấc mơ rất hỗn mang; ngay sau đó, chúng có tính chất biện chứng. Người lạ mặt mơ thấy mình ở tâm một nhà hát vòng tròn mà thế nào đó cũng là ngôi đền cháy: từng đám từng đám học trò ít lời đứng kín các tầng bậc; khuôn mặt những người hàng cuối lơ lửng ở khoảng cách nhiều thế kỷ và ở cao độ ngang các vì sao, nhưng mỗi đường nét đều chính xác. Người đó giảng cho họ các bài về giải phẫu học, vũ trụ học, huyền học: những bộ mặt hối hả lắng nghe và cố gắng trả lời khôn ngoan thông hiểu, như thể đoán được tầm quan trọng của bài kiểm tra này, nó sẽ cứu một trong số họ ra khỏi sự hiện hữu như một cái bóng rỗng và chèn họ vào thế giới thực. Người kia, cả lúc ngủ cũng như lúc thức, suy ngẫm về câu trả lời của những bóng ma này, không để mình bị bịp vì những kẻ mạo xưng, và đoán ra giữa một vài búi hoang mang một trí thông minh đang lớn dần. Người đó đang tìm một linh hồn xứng đáng tham dự vào vũ trụ.
Sau khoảng chín đến mười đêm, người đó hiểu được với ít nhiều cay đắng rằng không thể trông đợi gì từ những học trò chấp thuận thụ động giáo điều của ông ta mà chỉ từ những ai thỉnh thoảng đánh bạo đưa ra một sự phản đối hợp lý. Số trước, cho dù xứng đáng với yêu thương và nhiều trìu mến, không thể vươn tới trạng thái cá thể; số sau đã tồn tại sẵn nhiều hơn một chút. Một buổi chiều (bây giờ cả buổi chiều cũng dành cho việc ngủ, bây giờ người đó không thức nữa ngoại trừ một hai giờ lúc bình minh) người đó giải tán vĩnh viễn trường học ảo ảnh rộng lớn kia, chỉ còn lại một học trò duy nhất. Đấy là một chàng trẻ ít lời, vàng bủng, đôi khi nổi loạn, với những đường nét sắc nhọn giống như người mơ ra mình. Cậu ta không bối rối quá lâu trước sự xóa sổ thình lình các bạn đồng học của mình; tiến bộ của cậu ta, chỉ sau một vài bài học riêng, khiến ông thầy phải kinh ngạc. Tuy nhiên, thảm họa đã xảy ra. Người kia, một hôm, trồi ra khỏi giấc ngủ như ra khỏi một vùng hoang mạc đặc quánh, nhìn lên ánh sáng trống rỗng buổi chiều mà lúc đầu ông ta tưởng là ánh bình minh và hiểu rằng cả cơn ngủ vừa rồi chẳng hề mơ. Suốt đêm đó và suốt ngày kế tiếp, sự tỉnh táo khôn kham của chứng mất ngủ đè nặng ông ta. Ông ta lên đường thám hiểm rừng già, muốn làm mình kiệt sức: tất cả những gì ông ta tìm được, giữa lá độc cần, là vài mẩu giấc ngủ mơ hồ, điểm qua vài thị kiến sơ sài: chẳng dùng được việc gì. Ông ta muốn tập hợp ngôi trường lại và ngay khi vừa thốt ra vài lời động viên ngắn gọn, nó đã biến dạng, bị xóa tan. Trong cơn tỉnh thức gần như không dứt, những giọt lệ điên giận đốt bỏng cặp mắt già.
Người đó hiểu ra rằng nhiệm vụ nhào nặn cái chất liệu rời rạc và chóng mặt tạo thành những giấc mơ là nhiệm vụ vất vả nhất mà một người có thể bắt tay vào, dù người đó đã đi thấu được tất cả những câu đố thuộc tầng cao và tầng thấp: vất vả hơn nhiều tết sợi thừng bằng cát hay đúc ra cơn gió không mang mặt. Ông ta nhận ra rằng thất bại ban đầu là lẽ đương nhiên. Ông ta thề sẽ quên đi ảo tượng khổng lồ đã khiến ông ta lầm lạc từ đầu và tìm một phương pháp làm việc khác. Trước khi thực hiện, ông ta dành một tháng phục hồi lại sức mạnh đã tiêu tán trong cơn mê sảng. Ông ta bỏ hết mọi dự tưởng về mơ và gần như lập tức ngủ được một khoảng thời gian hợp lý trong ngày. Những lần ít ỏi có mơ trong giai đoạn đó, ông ta không chú ý tới những gì mình mơ. Ông ta hoãn lại việc bắt tay vào nhiệm vụ của mình để chờ đĩa mặt trăng đầy lại. Rồi, vào buổi chiều, ông thanh tẩy mình trong nước sông, cầu khấn các vị thần của hành tinh, thốt ra những âm tiết được phép của một cái tên hùng mạnh và đi ngủ. Gần như ngay lập tức, ông ta mơ thấy một quả tim đang đập.
Ông mơ nó đang co bóp, nóng ấm, bí mật, cỡ bằng nắm tay siết chặt, màu đỏ thẫm trong bóng tối mờ của một thân thể con người còn chưa có khuôn mặt hay giới tính; bằng tình yêu tỉ mỉ ông ta mơ ra nó, suốt mười bốn đêm tỉnh thức. Mỗi đêm, ông tri nhận nó thêm rành rọt hơn. Ông không đụng vào nó; ông tự giới hạn mình chỉ làm chứng nhân cho nó, quan sát nó, đôi khi sửa sang nó bằng cặp mắt. Ông tri nhận nó, ông sống nó, từ nhiều khoảng cách và góc độ. Đêm thứ mười bốn ông đưa ngón trỏ chạm vào động mạch phổi và rồi toàn bộ quả tim, từ bên ngoài lẫn bên trong. Bài kiểm tra làm ông hài lòng. Ông cố tình không mơ suốt một đêm: sau đó ông quay lại với quả tim, niệm tên một hành tinh và bắt đầu một thị kiến về một trong các khí quan chính khác. Trong vòng một năm ông đã đến được bộ xương, mí mắt. Những sợi tóc không đếm xuể có lẽ là phần khó khăn nhất. Ông mơ ra một người toàn vẹn, một chàng trai trẻ, nhưng người đó không chịu ngồi dậy hay nói năng hay mở mắt. Đêm lại đêm, người kia mơ anh ta đang ngủ.
Trong các thuyết khởi nguyên vũ trụ Ngộ giáo, các vị hóa công nặn ra một Adam màu đỏ không đứng dậy được; cũng vụng về và thô lậu và nguyên tố như Adam bằng đất đó là Adam bằng chất liệu mơ làm ra từ những đêm của vị pháp sư. Một chiều, người đó suýt hủy diệt toàn bộ thành quả của mình, nhưng rồi hối lại. (Giá ông hủy đi thì đã tốt hơn cho ông.) Đã cầu khấn hết những thần lực của đất và sông, ông phủ phục dưới chân ngẫu tượng có thể là con hổ cũng có thể là con ngựa câu, cầu xin sự trợ giúp không biết tên của nó. Buổi nhập nhoạng ngày hôm đó, ông ta mơ thấy bức tượng. Mơ thấy nó sống và run rẩy: không phải một thứ giống lai ghê rợn giữa hổ và ngựa, mà đồng thời là hai tạo vật hung dữ đó và cũng là một con bò mộng, một bông hồng, một cơn giông. Vị thần đa trùng này tiết lộ cho ông ta rằng trên mặt đất tên gọi nó là Lửa, rằng trong ngôi đền tròn đó (cùng những đền khác giống như vậy) nó đã được nhận hiến tế và thờ phụng, và nó sẽ dùng pháp thuật thổi hồn sống vào bóng ma mà ông ta mơ ra, sao cho tất cả mọi tạo vật, ngoại trừ chính Lửa và người ngủ mơ, sẽ nghĩ anh ta là một người bằng máu thịt. Nó ra lệnh cho ông ta rằng người kia, một khi đã được chỉ dạy các nghi lễ rồi, phải được phái xuống ngôi đền bị tàn phá dưới hạ du nơi những kim tự tháp vẫn còn lưu lại, để có một giọng nói ca tụng danh nó trong chốn bỏ hoang dưới kia. Trong giấc mơ của người ngủ mơ, người được mơ tỉnh dậy.
Vị pháp sư làm đúng theo mệnh lệnh. Ông dành ra một khoảng thời gian (cuối cùng kéo dài hai năm) để khải lộ cho anh ta những bí thuật của vũ trụ và của cách thờ phụng lửa. Trong thâm tâm, ông đau đớn phải rời anh ta. Viện cớ các nhu cầu sư phạm, mỗi ngày ông kéo dài thêm những giờ dành cho việc ngủ. Ông cũng làm lại cái vai bên phải, có lẽ còn khiếm khuyết chăng. Đôi lúc, trong ông gờn gợn cảm giác dường như tất cả những điều này từng xảy ra rồi… Nhìn chung, mỗi ngày của ông đều vui vẻ; mỗi khi nhắm mắt lại ông nghĩ: Giờ ta sẽ đến với con trai ta. Hoặc, ít hơn: Đứa con trai ta đã tạo thành đang chờ ta và sẽ không hiện hữu nếu ta không đến với nó.
Từng chút một, ông giúp anh ta làm quen với hiện thực. Một lần ông ra lệnh cho anh ta cắm cờ lên một đỉnh núi xa. Hôm sau, ngọn cờ rực cháy trên đỉnh núi. Ông thử nhiều thí nghiệm tương tự, mỗi lần một táo bạo hơn. Ông nhận ra với chút cay đắng rằng đứa con trai đã sẵn sàng được sinh ra – có thể còn nôn nóng. Đêm đó ông hôn anh ta lần đầu tiên và phái anh ta đi tới ngôi đền kia, mà di tích còn trắng chói dưới hạ nguồn sông, sau hàng dặm rừng và đầm lầy không xuyên thấu được. Trước đó (để anh ta không bao giờ biết rằng mình là một bóng ma, để anh ta tin rằng mình là một con người như người khác) ông truyền cho anh ta sự lãng quên tuyệt đối những năm tập sự của mình.
Cảm giác đắc thắng và bình an trong ông giờ nhuốm màu mệt mỏi. Trong những giờ nhập nhoạng lúc chiều tà và bình minh, ông phủ phục trước ngẫu tượng đá, có lẽ tưởng tượng rằng đứa con trai không thực của mình cũng đang thi hành nghi lễ giống hệt như vậy, trong một phế tích vòng tròn khác, dưới hạ du; ban đêm ông không còn mơ, hoặc mơ giống như mọi người khác. Giờ ông tri nhận những âm thanh và hình dáng trong vũ trụ có phần nhòa nhạt: đứa con trai vắng mặt được nuôi dưỡng bằng những suy giảm như vậy của linh hồn ông. Mục đích của đời ông đã hoàn thành; ông sống tiếp trong một cảm giác tựa như cực lạc. Sau một thời gian mà một vài người tường thuật lại câu chuyện của ông ưa tính bằng năm một còn người khác bằng năm năm một, ông bị đánh thức bởi hai người chèo thuyền lúc nửa đêm: ông không thấy mặt họ, nhưng họ kể cho ông về một người có pháp thuật ở một ngôi đền phía Bắc, có khả năng đi trên lửa mà không bị cháy. Vị pháp sư chợt nhớ lại những lời của vị thần. Nhớ rằng trong mọi tạo vật làm nên địa cầu này, lửa là thứ duy nhất biết rằng đứa con trai ông là một bóng ma. Ký ức đó, ban đầu vỗ về, cuối cùng đã hành hạ ông. Ông sợ rằng đứa con ông sẽ suy ngẫm về đặc quyền bất thường này và phát hiện ra bằng cách nào đó tình trạng của mình, chỉ là một vật mô phỏng. Không phải là người, chỉ là kết quả phóng chiếu giấc mơ của một người khác, có sự sỉ nhục nào sánh tày, có cơn chóng mặt nào như vậy! Mỗi người cha đều quan tâm đến những đứa con mình đã tạo sinh (mình đã cho phép) trong rối trí đơn thuần hay trong hân hoan; cũng tự nhiên là vị pháp sư lo cho tương lai của đứa con trai đó, đã được nghĩ ra từng nội quan, từng đường nét, trong ngàn lẻ một đêm bí mật.
Đoạn kết cho những trầm tư của ông đến đột ngột, nhưng nó được dự báo bằng vài dấu hiệu. Đầu tiên (sau một đợt hạn dài), một đám mây xa xôi trên một ngọn đồi, nhẹ nhõm như chim; kế đó, về phương Nam, bầu trời màu hồng như lợi con báo; kế đó là đám khói làm hoen gỉ màn kim loại của đêm; cuối cùng là cuộc tháo chạy hoảng loạn của lũ thú hoang. Bởi điều xảy ra từ nhiều thế kỷ trước, nay đã lặp lại. Phế tích đền thờ thần lửa lại thiêu hủy đi trong lửa. Giữa một bình minh không bóng chim vị pháp sư nhìn thấy áp sát vòng tường những vòng lửa đồng tâm. Trong chốc lát, ông đã nghĩ tới chuyện xuống lánh trong làn nước, nhưng rồi ông hiểu rằng cái chết đang tới là vương miện cho tuổi già ông, giải thoát ông khỏi mọi công việc. Ông bước lên gặp những dải lửa nát bươm. Nhưng chúng không cắn vào thịt da ông, chúng vuốt ve ông và ngập tràn ông không có sức nóng mà cũng không thiêu cháy. Nhẹ người, hổ thẹn, kinh hoàng, ông hiểu ra rằng cả mình cũng là một cái bóng, rằng có một người khác đang mơ ra mình.
Nguyễn An Lý dịch
(Truyện ngắn này trong tập Truyện hư cấu sẽ được Phanbook xuất bản vào tháng 3 năm 2023. Cảm ơn Phanbook đã đồng ý cho Zzz Blog đăng tải truyện ngắn này.)
Chấm sao chút:
Đã có 0 người chấm, trung bình 0 sao.
Hãy là ngôi sao đầu tiên của chúng tôi <3
không biết viết ngắn