“Linh Sơn”: Huyền thoại núi thiêng
Vậy huyền thoại của Linh Sơn là huyền thoại về một cuộc kiếm tìm.
Vậy huyền thoại của Linh Sơn là huyền thoại về một cuộc kiếm tìm.
Tự bản thân Linh Sơn đã là một huyền thoại. Cái huyền thoại về một con người chấp nhận thân phận lưu vong để thoát ra khỏi thế giới của sự hà khắc, trói buộc và kiểm duyệt tinh thần, để rồi sau đó đã trở lại chói lói trong ánh hào quang với ngọn cờ chiến thắng trên tay biểu dương “sự vật lộn của con người cá nhân thoát khỏi lịch sử của số đông”[1]. Hoặc ít ra đó cũng là cách mở đầu của chín chín phần trăm những bài giới thiệu, phỏng vấn, tìm hiểu, tọc mạch vào tâm hồn con người này, một con người vừa là đại diện của cái phương Đông vẫn còn lạ lùng và giàu chất exotic, vừa lại là kẻ đã từ bỏ quốc gia hùng mạnh nhất phương Đông để đến với vòng tay rộng mở chào đón của phương Tây. Phải, công chúng phương Tây hâm mộ cuộc đời của Cao Hành Kiện lắm. “Dịch giả của Ionesco ở Trung Quốc, những tác phẩm gây tức giận cho chính quyền Cộng sản, nạn nhân của cách mạng văn hóa, người tỵ nạn chính trị và nhận giải Nobel trong tư cách một công dân Pháp”, mấy chi tiết ấy hình như có một sức quyến rũ kỳ diệu, thậm chí các câu phỏng vấn thích xoáy vào “thân phận lưu vong”, “nghệ sĩ mất tự do”, “khái niệm Tổ quốc”… hơn là quan tâm đến bản thân Linh Sơn, một tác phẩm khó chịu và khó đọc mà người ta cũng hầu như chưa từng để mắt tới trước khi nó được gắn tấm huy chương sáng lóa.
Nhưng thôi, hãy để cho Cao một mình tự xoay xở với những vinh dự kiêm phiền toái mà một người nổi tiếng, hơn nữa là một nhà văn nổi tiếng phải chịu đựng. Chúng ta hãy tập trung vào chuyên môn và hạn chế tối đa để khỏi bước ra ngoài giới hạn của giấy trắng mực đen, của Linh Sơn như một tác phẩm văn học chứ không phải như một đối tượng thời thượng của thói hiếu kỳ.
*
Linh Sơn xuất hiện trong một câu chuyện bâng quơ giữa một cuộc gặp gỡ bâng quơ, mà người đưa tin cùng với cái vỏ hộp thuốc lá bản đồ của anh ta đều một đi không bao giờ trở lại (phảng phất bóng dáng xưa kia của đứa bé áo xanh/đỏ/trắng/đen xuống dạy lũ trẻ một bài sấm ca rồi biến mất?). Linh Sơn có gì? “Hắn ta… kể mọi thứ tuyệt vời về Linh Sơn”, nhưng tác giả không cho ta biết cái “tuyệt vời” ấy là gì. Thế nhưng câu chuyện mơ hồ ấy lại trở thành mối bận tâm, đối tượng kiếm tìm của nhân vật suốt trong tác phẩm. Những tín hiệu đôi khi lại xuất hiện, tạo ảo tưởng Linh Sơn chỉ ở đâu đây gần lắm. Này hai chữ linh sơn kết thúc câu đối của đại sư phụ Trần Tiên Ninh. Này Linh Nham. Nhưng còn Linh Sơn thật ở đâu thì mãi vẫn chưa thấy, mà cũng chẳng ai biết. Câu chuyện nhờ đó mà biến thành huyền thoại. Thì chẳng phải đẹp nhất vẫn là những huyền thoại chỉ nối với hiện thực bằng một sợi dây mỏng mảnh, chẳng thể tin mà cũng chẳng thể không tin đó sao? Tảng đá kia là nơi ông tiên từng ngồi đánh cờ đấy. Bài ca này là của cụ tổ mấy đời truyền lại đây. Rất thực mà cũng rất ảo, Linh Sơn phủ bóng xuống câu chuyện một không khí như thế, không khí huyền thoại nửa thực nửa hư trong một thị trấn nhỏ miền núi, xa rời Nhà nước, nơi linh hồn cổ xưa chưa chết hẳn trước sự xâm lược của văn minh.
Nhưng để nói về cách tồn tại của huyền thoại trong Linh Sơn cũng không đơn giản.
Hãy nhắc lại một đặc điểm dễ nhận thấy của Linh Sơn: nếu tiểu thuyết “truyền thống” kể một câu chuyện với những quá trình thì Linh Sơn là một sợi dây để người kể xâu vào đó những hạt gì tùy thích, một sợi dây Sêhêrazat của những câu chuyện (nếu tạm quy ước mỗi câu chuyện là một tập hợp tương đối trọn vẹn các sự kiện về một đối tượng nhất định và ít hay nhiều tách khỏi bối cảnh trực tiếp của người kể). Trong những câu chuyện ấy có đến ba phần tư là truyền thuyết. Những truyền thuyết địa phương vẫn bảo tồn được dạng sơ khai, không bị “luân lý giáo hóa làm cho ô nhiễm”, và người kể lại cũng không làm như Trang Chu tỉa xén chúng cho vừa vặn với ý mình mà chỉ như ngẫu nhiên trên đường nhặt lấy những bông hoa buông vào giỏ. Mà lạ thay những truyền thuyết đều gắn với con người. Có ma thuật có phù thủy có hàng nghìn năm trước nhưng tất thảy đều gắn với những con người, không phải con người chung chung mà những số phận cá nhân sinh động và bi kịch. Các truyền thuyết đều kết thúc bằng bi kịch, bằng những cái chết, những đám cháy, những tan vỡ, suy tàn, ấy là cách nhìn của trí tuệ dân gian đơn giản nhưng sáng suốt? Cũng lạ thay tất cả đều được kể lại hết sức bình dị tựa như chỉ là những chuyện đời thường. Hãy nói đến tính đạo đức, tính luân lý, đến khuyến thiện trừng gian. Tất cả những điều đó chẳng phải suy cho cùng chỉ là do mỗi người chú giải cố đau đầu tìm kiếm cho ra, mà mỗi người chú giải lại có thể đi tìm những ý nghĩa rất khác nhau tùy xem cái lương tâm của mình bị ố bẩn chỗ nào. Lời nhận xét của câu chuyện ni cô và viên tướng quân cũng nói một điều gần gần như thế. Còn tự thân câu chuyện chỉ là câu chuyện. Nó đẹp ai oán não nùng hay tối bưng như hũ nút là tùy vào người đọc, Bá Nha cũng đành lắc đầu buông đàn để chú trâu lững thững bỏ đi.
Vậy ta hãy nói Cao Hành Kiện, hay nhân vật của ông cũng được, chỉ nhặt lấy những bông hoa mà mình thích và hy vọng người đọc cũng thích, hay đúng hơn ông cũng chẳng thèm quan tâm đến người đọc[2]. “Mi chỉ muốn dùng ngôn ngữ kể lại nó một lần nữa mà thôi.”
Thế nên nghe kể về Vách đá Oan hồn chúng ta chỉ nhớ đến những cô gái “tế nhị nhất, đa cảm nhất”, đến tình yêu kích thước trời đất đã xúi cô gái bỏ trốn theo người yêu rồi gieo mình xuống bến. Những kết thúc bi kịch không đưa lại yếm thế hay bức bối. Chỉ có cảm giác thấm thía về cái phi thường vượt ra ngoài những số đo nhỏ mọn sẽ không còn bao giờ trở lại, và cái đó, tôi muốn gọi là huyền thoại. Huyền thoại là ánh chớp chỉ lóe lên một lần rồi tắt.
Huyền thoại không chỉ là sản phẩm độc quyền của lịch sử mà có mặt cả trong những ký ức riêng, nhất là những ký ức tuổi thơ. Ai chẳng có một thời tuổi thơ lấp lánh như kim cương khi ta là hoàng tử công chúa và khu vườn nhà bên cạnh là vương quốc thần tiên. Mi đi tìm tuổi thơ mình ở bất cứ đâu và kể chuyện tuổi thơ với cùng một niềm say mê như kể những truyền thuyết địa phương, tìm an ủi trong cái kỳ diệu của nó cũng như trong những huyền thoại “thật sự”. Và huyền thoại cũng chẳng cần phải tồn tại trong một câu chuyện lớp lang. Có lúc ở giữa cuộc đời trần tục bỗng nhiên xảy ra một khoảnh khắc huyền thoại. Một bóng núi giữa trời bất ngờ giương cánh biến thành con đại bàng đầy đe dọa. Chỉ cần là một cảnh tượng mang đến thứ cảm xúc có thể làm thi sĩ bật ra bài ca siêu phàm hay trào nước mắt vì thấy mình bất lực. Ngôn từ bất lực. Cao không thử làm thi sĩ, ông đưa ta đến trực tiếp trải nghiệm những cảm xúc trinh nguyên không cần nói ra lời:
“Giữa các thân cây, hai con chim to màu xám bạc, lổ đổ, chân đỏ nhon nhón bước vội trên dốc. Ta nhè nhẹ tiến lên và lập tức bầu im lặng bị tiếng vỗ cánh phần phật phá vỡ.
Không khí trong một lát hình như lại đông cứng lại, cặp trĩ tuyết xám bạc, lổ đổ, chân đỏ, đầy sức sống, hình như chưa từng tồn tại bao giờ, y như một ảo giác. Chỉ có rừng bất động mênh mông vô cùng vô tận, cái giây phút ta qua ở đây, thậm chí sự tồn tại của ta, với ta, xem ra phù du vô nghĩa.”
Cái thanh cao mức ấy không bao giờ trở lại, nhưng người ta cũng sẽ không thể nào quên.
Nhưng thế giới của Linh Sơn không chỉ có thế giới của Linh Sơn mà còn có thế giới đời thường. Những câu chuyện trong thế giới đời thường cũng thường kết thúc bi kịch. Nhưng không trong sáng như huyền thoại, những bi kịch đời thường đục ngầu, dữ tợn, làm người ta ngạt thở; huyền thoại luôn là những cái đã qua, còn đời thường không rũ bỏ được, ta vẫn phải tiếp tục trả nợ cho nó, ta chạy trốn đến thế giới của Linh Sơn, nhưng đời thường vẫn cứ bám theo ta, không thể gột rửa nổi, như vết tro đã vạch trên trán.
Huyền thoại là điều kỳ diệu, đời thường là cái quái thai không tài nào hiểu được.
Huyền thoại lung linh, đời thường trần trụi. Cô gái ngày xưa gieo mình xuống bến sông. Cô gái ngày nay sẽ trương phình và trôi dạt vào bờ, chỉ gợi ra sự kinh tởm và xua đuổi. Huyền thoại bị phủ nhận triệt để trong đời thường.
Huyền thoại đưa linh hồn lên cao trong giấc mơ, đời thường làm ta xấu hổ, nhục nhã về bản thân mình.
Đời thường có thể giết chết huyền thoại bằng nhiều cách.
Bản thân những huyền thoại đã kể nhiều về sự ngu dốt của con người, tất nhiên kể một cách huyền thoại, cái đẹp nhất chịu đựng sự phá hủy kinh khủng nhất. Ngôi chùa cổ nổi tiếng chết cùng một ngày với nhà sư vì hai đồ đệ đã để dục vọng che mờ Phật pháp. Dinh cơ trong đêm hôn lễ tưng bừng bốc cháy. Người thợ tài hoa nhất tự hủy hoại bản thân mình vì hành động vô lương. Chẳng phải huyền thoại đã cảnh cáo trước ư? Nhưng con người vẫn tiếp tục nhắm mắt mù quáng mà đi tới thời đại mới.
Hãy nói đến sự ấu trĩ của cả một thời đại. Mười năm Cách mạng văn hóa đã để lại những vết sẹo sâu trong lòng dân tộc Trung Quốc. (Đến bây giờ chúng ta vẫn phải tiếp tục trả giá cho nó, không chỉ riêng có Trung Quốc; phương Tây vẫn tiếp tục xỉa xói vào đó như là bằng chứng sự ngu dốt của những người ôm tư tưởng cộng sản trong lòng. Nhưng thôi hãy quay lại với văn học.) Cách mạng văn hóa cũng sinh ra những câu chuyện của mình. Cũng bi kịch của những số phận cá nhân bị nghiến nát. Nhưng chúng không có khả năng trở thành huyền thoại, huyền thoại còn cho ta những cảm xúc trong sạch, những câu chuyện này chỉ là cho người ta ngạc nhiên và phẫn nộ, chúng không có cái đẹp của huyền thoại mà lại tầm thường đến mức đáng tức giận, chúng gây hậu quả còn hơn cái thời người ta nhân danh Đạo lý của giai cấp thống trị mà đàn áp con người, tệ hơn nữa, chúng nhân danh những điều tốt đẹp nhất cho nhân dân để phá hủy người dân.
Nhưng thực ra Cách mạng văn hóa chỉ là một điển hình. Từ quá khứ đến hiện tại, cùng lúc xây dựng và lưu truyền huyền thoại, người ta cũng xói mòn huyền thoại.
Có cách giết chết những huyền thoại của quá khứ, phần lớn do sự ngu dốt của con người. Nền văn hóa đồ sộ mà nhân dân Trung Quốc rất lấy làm tự hào bị sứt sẹo đi nhiều miếng lớn. Trong Linh Sơn nhan nhản những phế tích, phế tích vật chất và cả phế tích tinh thần. Những mảnh kiến trúc, những mảnh bài ca, những mảnh phong tục. Chấn thương nặng trên quan hệ người – người. Người ta cũng có thể dựng lại một công trình, nhưng ai sẽ trả lại những bài hát của ông tu sĩ già vừa mới qua đời, sẽ tìm lại những chữ khoa đẩu trên hòn đá đã nổ tung để lấy chỗ cho một cây cầu mãi mãi không xây được?
Lại có những huyền thoại chết yểu trước khi được sinh ra. Câu chuyện cũng thật là cổ điển. Chàng với Nàng kỳ ngộ ở một nơi sơn thủy hữu tình. Truyện cổ tích sẽ nói họ yêu nhau lấy nhau và hạnh phúc đến cuối đời với một đàn con. Huyền thoại sẽ nói họ yêu nhau rồi nàng bay về trời để cho chàng ngẩn ngơ nhớ tiếc. Còn hiện thực nói nàng mời yêu, khát yêu, chủ động yêu nhưng chàng quay đầu bỏ chạy. Có khi vì sợ, có khi vì thương, nhưng xét cho kỹ là vì ích kỷ. Vì không muốn mất tự do, vì sợ phải đèo bòng, sợ trách nhiệm với người hoặc với chính lương tâm mình. Đấy là con người ở thời đại “đã đánh mất sự ngây thơ” (Umberto Eco), không còn chỗ cho phiêu lưu, cho say đắm bất chấp ngày mai nữa, là sự thất bại của tình cảm với lý trí tỉnh táo và tính toán. Không phải lý giải của tôi, đây là kết luận hiển ngôn của Cao Hành Kiện: “cái trầm trọng nhất chính lại là trái tim ta đã già nua, ta không thể yêu cuồng yêu điên lên mà không nghĩ tới bất kỳ cái gì. … Cho dù ta tìm kiếm khoái lạc trong chốc lát, ta cũng sợ phải gánh vác trách nhiệm.. Thế giới ấy, như một truyền kỳ cổ xưa, quá là xa vời với thế giới của ta.” Tình huống này không chỉ có một lần trong tác phẩm; lại kể tiếp ngay một câu chuyện về mối tình tự nhiên của đôi trai gái miền núi, nó càng nghiêm trọng hơn; lý trí tưởng như đã chiến thắng, nhưng đó chính lại là thất bại của lý trí.
Còn con người làm gì trong thế giới huyền thoại và đời thường ấy? Với Cao, huyền thoại xuất hiện để làm gì?
Cũng phải nói thêm một chút về vị trí của huyền thoại trong Linh Sơn.
Sự trở lại của huyền thoại trong văn học thế kỷ XX là một đề tài đã cũ. Khi đưa huyền thoại vào trong tác phẩm của mình, hình như Cao cũng chỉ đi theo cái trào lưu đã lan tràn qua cả Âu Á Mỹ Latinh này.
Nhưng thực ra nó khác hẳn.
Thế giới trong Kafkaz, Marquez hay cả Mạc Ngôn là người cùng thời cùng nền văn hóa với Cao là một thế giới thực tại được nhúng ngập trong chất hoang đường. Những chuyện kỳ dị nhất xảy ra nhưng vẫn theo logic đàng hoàng và vẫn bắt cả nhân vật, cả người đọc chấp nhận rằng nó xảy ra trong bối cảnh thực tại. Chính vì thế người ta nói đến một chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo.
Trong Linh Sơn thì ngược lại. Có một, cứ tạm gọi là như thế, mạch chính của câu chuyện trong một bối cảnh thực tại. Còn tất thảy các câu chuyện đều được kể lại, hoặc nhớ lại qua hồi ức, và thời gian trở thành một ranh giới thật rõ ràng. Tác giả như muốn khẳng định: huyền thoại không dính dáng gì đến đời thường hết.
Mặt khác, theo như quy ước của tác phẩm, tất cả cuộc đi của mi và của ta đều có thể chỉ là sản phẩm của tưởng tượng. “Ngay ta cũng không làm rõ được trong kỷ niệm của ta và ấn tượng của ta có bao nhiêu phần là mộng mị, thì làm sao mi lại có thể phân tách ra được kinh lịch và tưởng tượng của ta cơ chứ?” Nếu không thì làm sao giải thích được những câu chuyện, bất chấp logic hình thức, có bắt đầu mà không có kết thúc, đơn giản như những lần ta lạc giữa sương mù, giữa đầm lầy mà không biết được lối ra ở đâu?
Chỉ có thể giải thích, giống như phép ẩn dụ của Phật, hay của Trang Chu, ấy chỉ là những câu chuyện mang hình thức ít nhiều huyền thoại để diễn đạt cảm giác về bản thân, khi Cao đã chán nói thẳng toẹt ra những ý nghĩ của mình.
Ví dụ như, quay lại những lần đi lạc, ta chỉ đi lạc những lúc cố tách ra khỏi con người, và đến lần thứ ba thì lạc hẳn, lạc xuống địa ngục, không còn cách nào thoát ra được. Nhưng nếu Cao đã phải dùng đến hình thức huyền thoại, thì chúng ta cũng cứ chấp nhận nó như là một huyền thoại, có được không? Phiên dịch giữa các ngôn ngữ của thực tại cũng đã tam sao thất bản, tội gì phải dùng cách phiên dịch ngụ ngôn nó làm tầm thường văn chương đi. Huống chi Cao lại là người ghét tư biện, ghét ngụ ngôn, và hiển nhiên bản thân cũng đã gặp không ít phiền toái vì các tác phẩm của mình bị đọc theo cách phiên dịch.
Như vậy đồng ý rằng huyền thoại chỉ là phương tiện để diễn đạt, ta hãy quay lại xem cả hệ thống huyền thoại ấy nói gì.
Có lẽ cần nhắc lại vài lời về những con người đã đến tụ hội ở Linh Sơn.
Cao sinh ra “Ta” để vợi bớt những đêm dài cô đơn 1982[3].
Ta sinh ra “mi” để đối thoại, hay đúng hơn là để quan sát, miêu tả, hy vọng nhờ đó mà hiểu được mình [4].
Mi lại sinh ra “nàng” vì không chịu nổi chặng đường dằng dặc đi tìm Linh Sơn mà không có bạn đồng hành.
Cả ba đều có cuộc tìm kiếm riêng của mình. “Khi mi đang tìm kiếm con đường đưa tới Linh Sơn thì ta.. ta tìm kiếm chân lý.” Còn nàng có lẽ là đi tìm một cách giải thích để dứt khoát, chịu đựng hoặc rời bỏ, cuộc sống của mình. Nhưng cuộc sống của nàng chẳng qua là do mi gán cho, và cả chuyến đi của mi cũng chỉ là do ta tưởng tượng.
Nhưng với người đọc bình thường những tầng lớp ảo giác này có thể gây lúng túng. Mà chính Cao cũng đã phải vội vàng chú thích thêm rằng tất cả chẳng qua chỉ là bộ mặt của một ta. Vậy ta hãy theo Cao mà gọi tất cả những ta, mi, nàng, hắn bằng một chữ Người duy nhất, cái Người có thể đại diện cho bất cứ ai trong cuộc sống.
Vậy huyền thoại của Linh Sơn là huyền thoại về một cuộc kiếm tìm. “Mi đi tìm Linh Sơn, ta đi tìm chân lý.” Cả hai đều đẹp đẽ như nhau. Và cùng xa vời không thực như nhau. Biết ở chốn nào mà tìm đến bây giờ?
Mặt khác, con đường của mi và của ta, càng đi xa thì càng tiếp cận. Mặc dù mi chỉ quanh quẩn bên trong cái thị trấn nhỏ Ô Y, còn ta, ta ngang dọc khắp vùng Tây Tạng theo sông Trường Giang rồi trở về với đô thị náo nhiệt, Thượng Hải, Bắc Kinh. Đi tìm Linh Sơn chẳng qua cũng chỉ là đi tìm chân lý. Trí giả nhạo sơn, nhân giả nhạo thủy. Mà trí là để thức. Thức gì? Chẳng qua là thức cách sống làm người.
Như đã nói, trong những bi kịch huyền thoại có một phần lớn là bi kịch của những số phận đơn lẻ. Con người không đứng vững được trong những lớp thời đại cứ xô đẩy nhau như những lớp sóng dồi. Từ thời phong kiến đến lúc có chính quyền nhân dân, con người cũng chưa từng được sống yên bình. “Thời kỳ đại trị thái bình lớn là hiếm.” Trên con đường của mình ta cũng không đi tìm kiếm một thứ chân lý phổ quát, một thứ chân lý sáng chói trên đầu mọi con người, dắt dẫn một dân tộc, một quốc gia, một thứ chân lý có nhãn hiệu. Ta chỉ đơn giản đi tìm một “hạo sơn”, một chân lý nhỏ bé khả dĩ yên ổn được cái cuộc đời của một con người nhỏ bé là ta.
(Tôi nghĩ đây không phải là thứ chủ nghĩa cá nhân mà có những người muốn gán cho Cao, cũng không phải “sự vật lộn của con người cá nhân thoát khỏi lịch sử của số đông”. Cao không có ý định đối lập cái ta/mi/nàng/hắn với cái “chúng ta”, ông chỉ ghê sợ cái “chúng ta” đã kiểm duyệt đến cả những ý nghĩ của cá nhân trong cái thời chưa xa vắng đó, bắt cá nhân phải im giọng nói của “tôi” để nói theo ý nguyện của “chúng ta” [5]. Cao không cần đứng lên thách thức cả xã hội mà chỉ đơn giản muốn được “yên ổn”, muốn tự do nghĩ cái điều mình muốn và nói cái mình nghĩ cho dù đúng hay sai.)
Trong một thời đại mà mọi thứ lý tưởng như “Tôi đổ máu vì Hiên Viên” đều không thể làm điểm tựa được nữa, con người lại quay về với cái cô đơn muôn thuở của mình. Chẳng có ai giúp nó được cả, tự nó phải giúp mình thôi.
Quá trình tìm kiếm ấy cũng được thực hiện triền miên từ huyền thoại này qua huyền thoại khác, mà chẳng qua cũng chỉ là tìm trong nội tâm mình – chẳng phải mi vẫn kể cho nàng những sự tích vừa chợt đến trên đầu lưỡi đó sao? Người đi tìm thì ngơ ngác, người giải thích đều có vẻ như thông thái. Nhưng có lẽ ai thì cũng như ai thôi. Chẳng phải với nàng mi cũng tỏ ra thông thái đấy sao?
Rốt cuộc thì trong Linh Sơn chỉ có một lớp người có vẻ như đã tìm ra bí quyết cuộc sống của họ. Đó là những nhà tu hành. Họ hình như không có quá khứ, hoặc quá khứ không còn là một bộ phận hữu cơ của họ, họ đã tách khỏi quá khứ, dửng dưng nhìn ngắm nó bằng con mắt của người ngoài. Những người này, nhà sư hay đạo sĩ, những người mà ta hay mi đã gặp trong cuộc đời thật, họ đều tin tưởng vào Đạo, con đường của mình. Họ thanh thản, yên bình, tĩnh lặng.
Nhưng ta-mi lại không tiếp nhận được đạo lý của họ. Ta bỏ trốn khỏi đạo quán. Ta từ chối triết lý của nhà sư. Ta cũng ngoảnh cổ khỏi cô gái đã tự tử dưới bánh tàu hỏa. Dù theo cách nào đi nữa, chạy trốn cũng không thể là giải pháp. “Tôi tuy không có mục tiêu nào rõ rệt nhưng cứ là không thể từ bỏ được. – Từ bỏ cái gì? – Thế gian.” “Ta còn yêu đắm say thế gian này, ta chưa sống đủ.”[6]
Hắn tìm một cái chìa khóa. Đấy là câu chuyện được kể ở chương 62. Để tìm chìa khóa hắn ta đã xới tung tất cả lên và cuối cùng không chịu nổi sự lộn xộn hắn bỏ ra ngoài. Hít thở không khí, đi dạo và ngạc nhiên nhận ra những người khác, như mình trước đây, chỉ biết mù quáng lao về phía trước mà không biết cách đi chậm lại mà hưởng thụ.
Cuối cùng hắn vẫn quay lại căn phòng và tìm thấy chìa khóa.
Chỉ cần thêm mấy chữ “cuộc đời” vào đoạn tóm tắt trên là ta có thể có một hình dung mới (như người ta thường nói, nâng cao về chất) về điều Cao có thể đã định nói. Nhưng e rằng như thế lại rơi vào phiên dịch.
Rốt cuộc thì vẫn là quay về với con người, và có lẽ đấy là kết luận quan trọng nhất. Chân lý là gì thì chưa rõ, ở đâu thì chưa biết nhưng biết chắc là không thể thoát ly được cuộc sống con người.
Nhưng câu chuyện vẫn chưa hết.
Nếu tin lời Cao thì ông viết Linh Sơn nhằm hai mục đích: “Cuốn sách này có hai tầng nghĩa: một là để tìm và hiểu chính mình, và thứ hai là tìm hiểu nguồn gốc của nền văn minh văn hóa Trung Hoa.”[7]
Cao Hành Kiện đi tìm nguồn cội của văn hóa Trung Quốc. Bản thân chối bỏ quốc tịch Trung Quốc, chối bỏ “chúng ta”, chối bỏ “Tôi đổ máu mình..” như một cách chối bỏ hệ tư tưởng mà từ đó mặt khác đã sinh ra Cách mạng văn hóa và Thiên An Môn, Cao vẫn đi tìm nguồn cội văn hóa Trung Quốc hay nói cách khác, tâm hồn Trung Quốc. Mâu thuẫn không? Không. Vì Cao không đi tìm với tư cách một nhà văn, nhà trí thức đang đi tìm để nghiên cứu cách bảo tồn lại cho kho tàng nhân dân Trung Hoa. Cao chỉ giống một người đi du lãm, như đã nói, tham lam hái những bông hoa để giữ lấy cho mình. Cao là con người đang tìm hiểu thế giới chứ không phải một công dân với Tổ quốc. Và nếu có khao khát tìm ra câu trả lời về nguồn gốc văn hóa Trung Quốc thì cũng chỉ để thỏa mãn một nỗi tò mò có tính cách thẩm mỹ rất riêng tư mà thôi. Nhưng thôi đấy lại là việc khác.
Ta-mi cũng thực hiện chuyến đi này qua các huyền thoại. Dĩ nhiên ta không ấu trĩ đến mức lục những bài ca những câu chuyện đem bày ra rồi chỉ vào đó mà bảo đó là tâm hồn Trung Quốc cần gìn giữ. Những mảnh huyền thoại chắp vá lại phản ánh một thế giới mộng mị, hư ảo, là một người thông minh, ta thừa hiểu con người không thể nằm lì ở đó khi thời đại đã khác và nhận thức con người đã đi lên.
Nhưng cái thế giới mộng mị ma quái đầy chết chóc ấy hình như còn không đáng sợ bằng cái thế giới phản ánh trong một chắp vá khác: chắp vá các câu chuyện thời hiện đại mà Cách mạng văn hóa là tiêu biểu. Sự dốt nát trong thời đại mới còn tác hại gấp mười trong thời đại cũ. Điều này chúng ta đã nói rồi.
Lời giải của tôi là: Con người của thế giới mới quá tin vào sức mạnh của lý trí, của khoa kỹ đến mức khinh nhờn thượng đế, coi rẻ linh hồn [8]. Nó ngỡ có thể vạch kế hoạch mà bắt tâm hồn vào khuôn khổ, mà quên rằng tâm hồn con người vốn là một thứ vô cùng mong manh dễ vỡ. Chính vì thế mà con người bị bỏ rơi, đất nước bị bỏ rơi. “Người ta không tôn thờ những thứ cần tôn thờ nữa, chỉ tôn thờ những cái ba lăng nhăng! Một đất nước vô hồn đến thế này! Một dân tộc đã đánh mất hồn của nó!” Chỉ có thể giữ lại tâm hồn dân tộc nếu bỏ thói kiêu ngạo xuẩn ngốc ấy mà biết hòa hợp giữa lý trí với tâm linh. Cao cũng tìm ra Công Hiền trong thế giới những thiên tài cổ đại và nêu ông như một tấm gương sáng “Ông căn bản không nghĩ chống lại cái hồ đồ bằng cái được gọi là lý trí, ông đã rút rất xa sang một bên, ngập chìm vào trong cõi mộng sáng láng.” Nhưng tấm gương này chỉ có thể cho cá nhân soi.
Dĩ nhiên, mỗi người đều có thể có cách giải thích riêng. Cũng có thể bản thân Cao không muốn chúng ta đi tìm một lời giải thích nào cả. Trong các cuộc phỏng vấn, Cao từ chối khái niệm bản sắc văn hóa: “Người Hoa đã sống tùy thuộc quá mức trong vùng giới hạn văn hoá của mình. Làm như họ đã tự ấn định một điều kiện nghiêm nhặt lên chính họ rằng họ phải cưu mang một bản sắc Trung Hoa trên mỗi đời sống. Đối với riêng tôi, văn hoá Trung Hoa nhìn chung chung không chứa đựng ý nghĩa gì. Tôi không là một người viết sử, tôi là một kẻ sáng tạọ; những kẻ sáng tạo không cố gắng đeo cứng vào một quan điểm đặc thù Trung quốc. Dĩ nhiên, điều này hoàn toàn không có nghĩa tôi bác bỏ tôi là một người Hoa. Tôi là người Hoa và sẽ mãi là người Hoa. Tôi mang những dấu ấn văn hóa Trung Hoa, nhưng quan trọng không phải là những dấu tích Trung Hoa bên trong tôi mà là những gì sau cùng có thể tìm thấy trong các tác phẩm của tôi. Quan trọng nhất là đời sống sáng tạo của cá nhân tôi như một người cầm bút, và hiện hữu của tôi như một con người.”[9]
*
Câu chuyện huyền thoại Linh Sơn vẫn có một hồi kết, và là một hồi kết tích cực nhưng không lạc quan.
Linh Sơn ở bên này sông? Ở bên kia sông? Ở bên kia Ô Y. Luôn ở bờ sông bên kia… Có phải ông lão muốn nói cái đích ấy, cứ gọi là Linh Sơn, cứ luôn luôn “ở bên kia sông”, không thể nào tới được?
Trong cuộc đi cuối cùng mi đã chìm ngập vào không gian phi thực, bỏ lại đằng sau những con người, từ những người bình thường, một đứa bé không biết nói, một ngôi làng chết. Rồi cô gái, người bạn đường cuối cùng mà mi đã tự nghĩ ra mi cũng bỏ lại nốt. Mi chỉ còn lại một mình đi tới đích và khi đó cũng là khi mi ngừng sống.
Điều đó có nghĩa cái Linh Sơn kia rốt cuộc cũng chỉ là hư ảo? Là không thể đạt đến?
Là ta chỉ cần mi trong công cuộc kiếm tìm? Còn khi đã kiếm được rồi thì mi cũng không còn lý do tồn tại?
Hay có thể giải thích rằng khi ấy là con người đã thủ tiêu được cái tôi xấu xí, cái phân thân đáng ghét, để đạt tới trạng thái yên bình cho bản thân mình?
Cao Hành Kiện có lẽ cũng không chờ chúng ta tìm ra đáp số. Linh Sơn không phải một hai ngày mà nói được xong.
Nếu có gì cần than phiền thì chỉ có thể nói đây là một tác phẩm hơi lớn. Viết cho mình, Cao đã đưa tất cả ký ức, suy tư, ghi chép vụn vặt vào, tất nhiên bên cạnh văn chương, làm cho nội dung của nó phình ra so với kích cỡ của nó. Tác phẩm này không phải để đọc từ đầu đến cuối, có thể đọc nó tùy theo ý muốn của mỗi người muốn tìm ra ở nó điều gì.
Muốn hiểu được Linh Sơn có lẽ phải tìm cách giải mã từng huyền thoại nhỏ trong cái tổng thể của nó, một bài viết nhỏ thế này không cách nào làm được.
Và kể cả như thế chắc cũng không hiểu được Linh Sơn. Bởi vì Linh Sơn là Cao Hành Kiện, là (*) cuộc đời Cao Hành Kiện. Có lẽ để tới gần được một điều như thế, mỗi người phải tự viết lấy tiểu thuyết của chính mình.
Con Lợn Con
2007
[1] Diễn văn trao giải cho Cao Hành Kiện của Hội đồng Nobel.
[2] “Văn học đầu tiên nẩy sinh từ sự cần thiết của nhà văn làm tròn vẹn chính mình, còn có hiệu quả hay không với xã hội thì là chuyện sau khi tác phẩm đã hoàn thành. Thêm nữa, hiệu quả đó ra sao cũng không do ý nguyện của nhà văn mà quyết định.” – “Lý do của văn học”, diễn từ nhận giải Nobel của Cao Hành Kiện.
[3] “Khởi nguyên của Linh Sơn là tôi muốn viết một cuốn sách cho chính tôi. Buổi ấy, dù là tôi đã tự áp đặt những giới hạn nghiêm nhặt cho bản thân ở nhiều tác phẩm, thì chúng vẫn gây khó cho tôi về mặt chính trị. Tôi viết Linh Sơn để bày tỏ tôi một cách tự do, tôi không nghĩ một cuốn sách như vậy sẽ được xuất bản trong buổi tôi còn sống, và tôi không từng bao giờ có ý nghĩ sẽ định cư ở một nước Tây Phương.” – “Cao Hành Kiện: Hành trình một ngày dài” – Trò chuyện với Leslie Zhao năm 2000 ở Sydney.
https://damau.org/42846/cao-hanh-kien-hanh-trinh-mot-ngay-dai
[4] “Sử dụng “mi” tạo ra đổi thoại. Và tôi dùng ngôi thứ ba là để tạo ra chút khoảng cách.” – Cao Hành Kiện trả lời phỏng vấn David Der-Wei Wang ngày 26/2/2001 ở New York.
https://asiasociety.org/conversation-gao-xingjian
[5] “Ở đây, tôi muốn nói là văn học cũng chỉ có thể là tiếng nói của cá nhân, mà vốn xưa nay vẫn thế. Văn học một khi uốn thành tụng ca của quốc gia, kì xí của dân tộc, miệng lưỡi của chính đảng, hoặc phát ngôn của một giai cấp hoặc một tập đoàn, cho dù có thể vận dụng thủ đoạn tuyên truyền, mở rộng thanh thế, rợp trời kín đất chi nữa, cái loại văn học đó cũng chôn vùi mất bản tính, không thành văn học, mà biến thành công cụ của quyền lực hoặc lợi ích.” – “Lý do của văn học”, diễn từ nhận giải Nobel của Cao Hành Kiện.
[6] “Trong chuyến đi ông đã gặp một đạo sĩ mà, cách nào đó, đã từ xã hội trốn đến với thiên nhiên. Đã bao giờ ông tự thấy mình có thể theo con đường đó chưa? – Tôi đã từng muốn thế, nhưng dưới chế độ cộng sản điều đó là bất khả. Trong lúc viết Linh Sơn tinh thần tôi quả thật đã rơi vào trạng thái đó, và tôi cứ viết như vậy cho đến khi sự kiện Thiên An Môn xảy ra và tôi cảm thấy mình cần phải chấm dứt tình trạng này để trở lại với xã hội.” – Trả lời phỏng vấn ngày 29/10/2000.
[7] Trả lời phỏng vấn ngày 29/10/2000.
[8] “Con người thường tin rằng bản thân mình cũng là một nhà sáng tạo, như Thượng đế. Điều này càng đặc biệt đúng với giới trí thức, và trong thế kỷ vừa qua, trí thức thường có thói quen quên rằng họ cũng như mọi người khác.” – Trả lời phỏng vấn David Der-Wei Wang ngày 26/2/2001 ở New York.
https://asiasociety.org/conversation-gao-xingjian
[9] Cao Hành Kiện: Hành trình một ngày dài – Trò chuyện với Leslie Zhao năm 2000 ở Sydney.
https://damau.org/42846/cao-hanh-kien-hanh-trinh-mot-ngay-dai
Chấm sao chút:
Đã có 1 người chấm, trung bình 5 sao.
Hãy là ngôi sao đầu tiên của chúng tôi <3