Có nhiều hơn một Haruki Murakami khi bàn về Văn học Nhật Bản
Mỗi người trong số đó đều vừa viết nên những câu chuyện về hành động và khát khao của người phụ nữ, vừa thách thức những hạn chế của mô hình biểu đạt truyền thống.
Với những ai quen thuộc với văn học Nhật Bản, một số cái tên sau đây nhất định sẽ được nhắc tới trong cuộc trò chuyện: Yukio Mishima với văn phong tuyệt mĩ, vụ tự sát gây chấn động, và những tư tưởng chính trị hết sức cực đoan; Kenzaburo Oe và Yasunari Kawabata vì thắng giải Nobel Văn chương danh giá; và Haruki Murakami trong vai Haruki Murakami. Trong vài thập kỷ trở lại đây, các tác phẩm của Murakami đã phủ cái bóng quá lớn lên trên các tên tuổi khác, đặc biệt trong con mắt độc giả phương Tây. Rất nhiều người hâm mộ cuồng nhiệt dùng tên ông như một phép hoán dụ, tự nhận mình yêu văn học Nhật Bản nói chung, nhưng khi bị hỏi sâu hơn thì phải thừa nhận rằng chỉ tiếp cận với văn học Nhật thông qua văn Murakami.
Đây không phải để nói rằng Murakami không có sức hút. Ông có khả năng độc nhất vô nhị trong việc khơi gợi nỗi cô độc và chán chường chốn thị thành, đặc biệt thông qua trải nghiệm của những “người bình thường” – những nam nhân vật chính luôn vật vã với sự yêu-hận trong tình cảm, công việc, và cả cuộc sống. Khi khai thác được đúng các chủ đề quen thuộc, các tác phẩm của Murakami có thể biến thành một chuyến du hành vô cùng kỳ thú và hào hứng. Nhưng một trong những lời phê bình thường gặp nhất đối với các sáng tác của Murakami – điều mà kể cả những độc giả trung thành nhất cũng phải thừa nhận – chính là sự phẳng dẹt nhạt nhoà của các nhân vật nữ. Đa phần các nhân vật nữ hiện diện trong vai trò điểm bật để giúp các nhân vật nam hiểu thêm về bản thân mình, và có rất ít điều để nói về họ trong dòng tự sự. Vì nhu cầu cốt truyện, những người nữ này sẽ chết thẳng cánh khỏi trang giấy, hay trở thành một vật phẩm tình dục mà nhân vật nam say mê đắm đuối, hay sẽ đóng vai trò một nửa kia bị động mà nhân vật chính chỉ quay về với sau khi anh ta đã được khai sáng.
Phụ nữ trong các tác phẩm này thường rơi vào rập khuôn giới tính. Kể cả người nữ đóng vai trò nhân vật chính duy nhất trong vô vàn các tác phẩm của ông cũng không tránh khỏi rập khuôn: Aomame trong 1Q84 là một sát thủ máu lạnh đầy tính toán – một ví dụ điển hình cho việc người phụ nữ phải trở nên mạnh mẽ về mặt thể chất để có thể trở thành nhân vật chính. Nhưng kể cả Aomame cũng không đứng một mình, bởi cô là một trong hai nhân vật chính của bộ tiểu thuyết, người còn lại (đương nhiên) giới tính nam.
Trong phần lớn trường hợp, có rất ít động lực hay ham muốn đằng sau những người phụ nữ của Murakami, hay bất cứ sự tự chủ nào ngoài việc đóng vai trò liên quan mật thiết đối với nhân vật nam chính. Nếu đây là đại diện cho văn học Nhật Bản trong tư tưởng độc giả phương Tây, vậy thì nó nói lên được điều gì về cách người phụ nữ bị thể hiện và đánh giá trong bối cảnh vô cùng chật hẹp này?
Rất may sao, ngày càng có nhiều nỗ lực dịch văn học Nhật Bản do các tác giả nữ viết nên để phục vụ các thị trường đọc sách tiếng Anh, như tiểu thuyết đạt giải Akutagawa Cô nàng cửa hàng tiện ích (dịch giả Ginny Tapley Takemori) của Sayaka Murata, và một tác phẩm dịch gần đây hơn mang tên Ga Tokyo Ueno (dịch giả Morgan Giles) của tác giả người Nhật gốc Hàn Yu Miri. Cả hai nữ tác giả đều xây dựng những nhân vật nữ phức tạp với những trải nghiệm ở trung tâm tự sự, hơn là vai trò nữ phụ phục vụ cho nhân vật nam. Nhưng ngay cả khi độc giả giờ đây có thể dễ dàng gọi tên các nữ nhà văn đương đại, rất khó để liệt kê tên các nữ văn sĩ có tác phẩm xuất bản trước thập niên 1980 cùng thời với các nam nhân kể trên, dù không hề kém cạnh về thành công doanh số.
Trong số vô vàn cái tên có thể kể đến, có ba nữ tác giả đã xây dựng nên những thế giới xoay quanh các đề tài thường trực trong văn Murakami: Takako Takahashi, Taeko Kōno, và Fumiko Enchi. Mỗi người trong số đó đều vừa viết nên những câu chuyện về hành động và khát khao của người phụ nữ, vừa thách thức những hạn chế của mô hình biểu đạt truyền thống. Bằng nhiều cách khác nhau, họ đem những cảm giác cô độc, chán chường, và không khí mà rất nhiều người yêu mến trong văn Murakami đẩy lên cao trào, lên tới những mức độ cực đoan đẩy người đọc khỏi vùng thoải mái.
Ngoài các yếu tố siêu thực trong truyện Murakami, một trong những dấu chỉ nhất quán nhất của chính là “nhân vật chính kiểu Murakami”: một con người cô độc, thông thường mang giới tính nam, lãnh đạm thờ ơ, và thường oằn mình dưới sức nặng của đời sống phố thị. Độc giả sống qua giai đoạn bong bóng kinh tế nước Nhật bùng nổ rồi sụp đổ trong thập niên 80 thường đồng cảm mạnh mẽ với nhân vật lạnh lùng này, và mẫu hình ấy tiếp tục chạm đến trái tim độc giả cả trong và ngoài nước Nhật.
Cũng như các nhân vật Murakami, các nhân vật nữ chính của Takako Takahashi cũng đều cô độc và lãnh đạm đối với cuộc đời họ, và những ức chế của họ thường gắn liền với áp lực đến từ hệ thống xã hội lớn hơn, như cơ hội nghề nghiệp có hạn và những kỳ vọng gia đình bám rễ sâu như việc phải kết hôn ở một độ tuổi nhất định. Takahashi thuộc về lứa tác giả nữ trẻ tuổi lớn lên trong bối cảnh thời hậu chiến khi về lý thì người phụ nữ được hưởng nhiều tự do hơn, nhưng trên thực tế thì các hạn chế về mặt văn hoá còn y nguyên. Những người phụ nữ của Takahashi, đặc biệt trong tuyển tập truyện ngắn Lonely Women (dịch giả Maryellen Toman Takahashi), thường xuyên phải gồng mình chống lại những hạn chế của họ, và chênh vênh giữa ranh giới làm tròn vai trò nữ tính mà xã hội kỳ vọng với việc hành động theo những ham muốn phi truyền thống của mình.
Ví dụ, nhân vật Sakiko đùa giỡn với đàn ông bằng cách bắt chuyện với họ và thử xem cô có thể ăn nói thái quá đến mức nào trước khi người kia mời cô đi chơi. Trong cuộc hẹn, cô sẽ chọn một chỗ ngồi ở đối diện quán cà phê họ hẹn gặp và ngồi quan sát người đàn ông chờ đợi cô, xem xem anh ta sẽ chờ đợi được bao lâu trước khi bỏ đi. Thế nhưng, Sakiko làm vậy chẳng phải vì không có trái tim, mà hành động của cô được miêu tả dưới dạng một bài tập trí óc – đem đàn ông đặt dưới kính hiển vi như cái cách phụ nữ thường bị xem xét. Takahashi viết rằng, “Sakiko was inordinately interested in observing men in this way. How much more exciting this sort of encounter was for her than actually meeting a man and conversing with him! She wished that she could go so far as to gaze at a man through binoculars.” Những khoảnh khắc Sakiko đùa giỡn vô hại với đàn ông được đem đặt cạnh những cảnh đen tối hơn liên quan đến một chuỗi các vụ phóng hoả trong khu vực cô sống. Ta không rõ bản thân Sakiko là thủ phạm hay hứng thú của cô được khơi gợi nên thông qua sự mê mẩn ghê rợn. Nhưng Takahashi cho ta thấy rất rõ rằng hứng thú lạ kì của Sakiko với lửa, cũng như việc đùa giỡn với đàn ông, bắt nguồn từ khát khao về một cuộc sống rất khác với cuộc sống hiện tại của cô – một cuộc sống mà cô được tự mình làm chủ và tự mình hành động.
Trong khi Lonely Women kể về những người phụ nữ thức tỉnh trước giới hạn cuộc sống và bộc phát hành động mỗi khi có thể, vẫn còn những nhân vật bị kẹt lại trong những cuộc hôn nhân quá tầm thường đau đáu ham muốn nhiều sự cuồng nhiệt hay khai phóng hơn. Trong câu chuyện “The Suspension Bridge”, Haruyo phát hiện cuộc sống hôn nhân lặp đi lặp lại của mình bị đảo lộn bởi sự xuất hiện của một người bạn trai cũ trở về sau khi làm việc tại nước ngoài. Trong lúc vật lộn để hiểu ra sự bất mãn bất ngờ dồn lên cao của mình, cô cố gắng tìm sự công nhận từ người chồng thờ ơ Eizō. Xuyên suốt câu chuyện, Haruyo hành xử vô cùng khác lạ, cố gắng khơi gợi phản ứng từ người chồng lãnh cảm. Cô nổi loạn để khiến chồng hỏi thăm, nhưng anh không bao giờ hỏi và những khao khát của cô mãi mãi không bao giờ được công nhận.
Như tác phẩm của Takahashi, các câu chuyện của Taeko Kōno trong tập Toddler-Hunting and Other Stories (dịch giả Lucy North) tập trung vào sự đứt mạch giữa những gì xã hội kỳ vọng người phụ nữ phải ham muốn, thông thường là hôn nhân và làm mẹ, với những gì họ thật sự ham muốn. Sự bất hoà hợp giữa những kỳ vọng từ bên ngoài và những khao khát sâu bên trong sản sinh ra những nhân vật điên cuồng, cách ly với thế giới, và có khi vô cùng bạo lực – dù sự bạo lực ấy chỉ nằm trong tưởng tượng hay quan hệ tình dục đôi bên cùng tự nguyện. Nhưng sự bất đồng trong truyện của Kōno cũng không thể tìm ra lời giải đáp. Các nhân vật hiếm khi tìm được nhận thức cá nhân hay sự thoả mãn lớn lao hơn. Những câu chuyện của cô luôn dẫn đến cái kết mở gây bứt rứt khó chịu, như thể đơn giản là không có cách nào để những khát khao của các nhân vật này được hoà giải trong đời thật.
Có thể thấy rõ nhất đặc trưng kết mở của Kōno trong truyện “Snow”, một câu chuyện theo sát nỗ lực chấp nhận cái chết của người mẹ nuôi của Hayako. Ban đầu, câu chuyện phát triển theo một mạch khá truyền thống: cái chết của mẹ Hayako, mặc dù khá đau đớn lúc ban đầu, sẽ chỉ đơn giản là một phần của câu chuyện và Hayako sẽ tiếp tục sống tiếp cuộc đời mình. Nhưng một bước ngoặt tự sự hé lộ từng chút từng chút một về tuổi thơ của Hayako thông qua lời kể của cô. Ta phát hiện rằng Hayako đã bị mẹ bạo hành khi còn nhỏ cả về thể chất lẫn tinh thần bởi cô là kết quả của mối tình vụng trộm giữa cha cô và tình nhân. Tuyết rơi là một trong những dấu chỉ cho mối quan hệ của họ bởi nó gắn liền với một sang chấn tâm lý chung của mẹ nuôi và con gái; cả hai cùng bị chứng đau nửa đầu gây ra bởi tâm thần cơ thể mỗi khi tuyết rơi, tượng trưng cho nỗi đau họ cùng gánh vác bởi hoàn cảnh gia đình hỗn loạn. Khi người mẹ chết đi, Hayako hy vọng rằng những cơn đau đầu làm suy nhược cơ thể sẽ giảm dần. Thay vào đó, những cơn đau vẫn tiếp diễn và lên đến cực điểm khiến cô cố gắng tự chôn sống mình dưới làn tuyết dày.
Những câu chuyện của Lonely Women và Toddler-Hunting thường tập trung vào một nhân vật chính với thế giới nội tâm cấu thành đại bộ phận xung đột. Độc giả nhập vào tâm trí của Sakiko, Haruyo hay Hayako khi họ suy nghĩ về những trải nghiệm của mình, khuất lấp đi thực tại tồn tại bên ngoài những trắc trở sâu trong. Ta không bao giờ biết liệu Sakiko có phải kẻ phóng hoả hay Hayako có sống sót rời khỏi lớp tuyết không. Điều rõ ràng nhất chính là những trải nghiệm này – dù có là tưởng tượng hay không – vẫn đều hết sức thật với họ.
Trong tiểu thuyết nổi tiếng Masks (dịch giả Juliet Winters Carpenter), Fumiko Enchi miêu tả viễn cảnh khi phụ nữ được phép thay đổi thế giới mà họ sinh sống – và những hệ luỵ đến từ việc khiêu chiến với một hệ thống áp bức người phụ nữ. Như những người phụ nữ trong Lonely Women và Toddler-Hunting, Masks tập trung vào những nhân vật không hề “tốt” rõ ràng và tuyệt đối. Nhân vật chính của tiểu thuyết là một goá phụ trung niên, Mieko Togano, với âm mưu trả thù người chồng đã chết từ lâu bằng cách chiếm đoạt dòng dõi nhà chồng mà kết quả là kéo theo biết bao người phụ nữ khác vào vòng xoáy tội lỗi, một số người trong số đó đã phải mất mạng vì nhiệm vụ hết sức ám ảnh của Mieko. Một số yếu tố trong tiểu thuyết có thể được hiểu theo nghĩa chống lại một hệ thống trọng nam khinh nữ hết sức ngột ngạt, mà trong đó phụ nữ phải cùng nhau hành động để giữ vững quyền tự chủ trong một thời khắc lịch sử khi đàn ông được hưởng nhiều quyền lợi hợp pháp hơn. Thế nhưng Enchi cũng cho thấy rằng những hành động phản kháng đôi khi có thể làm gia tăng sự ngột ngạt và kể cả là gây hại cho những phụ nữ khác. Enchi đã đem những nghi vấn này ra ánh sáng, nhưng cũng như Takahashi và Kōno, không bao giờ đem đến cho ta những câu trả lời chắc chắn.
Đó là những nhân vật mà tôi ao ước có thể di chuyển qua những không gian đô thị trong văn Murakami: những người phụ nữ-chiến binh, những người phụ nữ lộn xộn, những người phụ nữ đóng vai trò nhiều hơn là điểm trang cho phép tự sự. Mặc dù không câu chuyện nào trong số này dựng nên thế giới siêu thực đặc trưng của Murakami, chúng cũng đã đem lại một bước ngoặt so với cảnh quan tâm lý nổi tiếng của Murakami. Đắm mình trong nội tâm những người phụ nữ đang cố vượt qua một thế giới với nhiều hạn chế trong xã hội đồng nghĩa với việc đồng giả sẽ gặp phải những nhân vật nữ có lúc rắc rối đầy mình, nhưng cũng khiến ta đặt câu hỏi với sức ảnh hưởng của một hệ thống không hề ưu ái đối với một số thế hệ hay một số nhóm người. Những người phụ nữ sinh sống trong những câu chuyện này cũng thuộc về cùng một bối cảnh lịch sử với các nhân vật lãnh đạm của Murakami. Không bên nào tồn tại trong một khoảng chân không.
Các tác phẩm của Takahashi, Kōno và Enchi – cùng với các sáng tác của các nữ nhà văn cùng thời – thật ra rất dễ tiếp cận đối với một bộ phận lớn người hâm mộ Murakami. Việc Murakami trở thành đại diện duy nhất cho văn học Nhật kéo theo đó là một sự nhấn mạnh quá mức vào một hình ảnh duy nhất của đầu ra văn hoá của nước Nhật: thế giới siêu thực đẫm màu văn hoá đại chúng trong các tiểu thuyết Murakami vô hình trung trở thành “văn học Nhật Bản” nói chung và điều này gây ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài hơn cả ở ngoài địa hạt văn học. Nhật Bản có một lịch sử lâu dài và rắc rối với phân biệt và bất đồng giới tính mà nạn nhân chính là phụ nữ và các nhóm thiểu số khác, vì thế mà sự hiện diện của họ trong văn học – nghệ thuật là hết sức quan trọng. Trong một bài Op-Ed trên tờ New York Times năm 2018, Viet Thanh Nguyen viết về “sự đa dạng tự sự”, trong đó “chúng ta đang sống trong một nền kinh tế thiếu thốn tự sự, trong đó ta cảm thấy bị tước đoạt và phải đấu tranh để kể câu chuyện của mình và chống lại những câu chuyện bóp méo hay loại bỏ ta.” Mặc dù viết trong bối cảnh nước Mĩ, những dòng này vẫn hết sức đúng với tiêu chuẩn văn học Nhật. Đã rất lâu rồi những tác phẩm mà phương Tây đọc được thông qua dịch thuật chỉ đem lại quyền lợi cho một thể loại tác giả và một nhóm các nhân vật rập khuôn duy nhất. Trong một thế giới mà sự phân biệt và sự cố chấp mù quáng luôn dựa dẫm vào những hình mẫu gây hại, việc phản ứng bằng cách tạo ra không gian dành cho nhiều tiếng nói hơn là hết sức quan trọng, bao gồm những tiếng nói đã bị hạn chế trong dòng lịch sử. Takahashi, Kōno và Enchi – họ dựng nên không gian để những người phụ nữ khác có thể tham gia vào văn hoá văn học, từ đó đem lại một ngôn ngữ dành cho những sự ức chế, mâu thuẫn tư tưởng, và sự phẫn nộ mà họ trải qua. Murakami là một nhân vật quan trọng trong vũ trụ văn học Nhật, nhưng ông chỉ là một trong vô vàn cây viết; để hiểu được thế giới mà các nhân vật Murakami di chuyển qua, ta phải biết ai là người đã đến đó trước.
Aimei Lee dịch
Bài viết gốc mang tên There’s More to Japanese Literature than Haruki Murakami của Julia Shiota viết trong mục Essays trên trang Electric Literature đăng ngày 04/09/2019.
Về tác giả: Julia Shiota là một cây bút tự do với các tác phẩm khảo sát các vấn đề về danh tính qua lăng kính văn học và văn hoá. Liên hệ với tác giả tại @julia_megumi trên Twitter hoặc qua trang web cá nhân juliashiota.com
Chấm sao chút:
Đã có 3 người chấm, trung bình 5 sao.
Hãy là ngôi sao đầu tiên của chúng tôi <3
Cô gái bàn bên
1 Comment
Câu kết hay quá!
Văn học Nhật, dù Haruki có nổi bật nhưng không phải là biểu trưng hay biểu tượng gì. Em nhớ đã từng đọc ở đâu đó lời phê bình rằng “HM dùng văn học phương Tây để nói về ng Nhật”